Vi Phạm Lao Động

Vi Phạm Lao Động

Mặc dù Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn có liên quan đã quy định khá cụ thể các hành vi người sử dụng lao động không được thực hiện trước, trong và sau khi ký hợp đồng lao động tuy nhiên vì những lý do khách quan hay chủ quan mà nhiều khi họ vẫn vi phạm những quy định đó. Những hành vi vi phạm pháp luật lao động thường gặp nhất là:

Mặc dù Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn có liên quan đã quy định khá cụ thể các hành vi người sử dụng lao động không được thực hiện trước, trong và sau khi ký hợp đồng lao động tuy nhiên vì những lý do khách quan hay chủ quan mà nhiều khi họ vẫn vi phạm những quy định đó. Những hành vi vi phạm pháp luật lao động thường gặp nhất là:

Sử dụng hình phạt tiền thay cho kỷ luật lao động

Một số doanh nghiệp dùng hình thức phạt tiền, cắt lương người lao động nếu người lao động vi phạm nội quy công ty để thay cho việc xử lý kỷ luật lao động. Thế nhưng, việc làm này là trái quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 128 Bộ luật Lao động năm 2012 cấm người sử dụng lao động dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

Các hành vi phạm tội liên quan đến sắp xếp công việc

Luật mới quy định các hành vi phạm tội và hình phạt dân sự đối với các tội liên quan đến sắp xếp công việc, được xác định rõ ràng bao gồm các hoạt động phi công việc, không khác gì với các hoạt động thu hút tiền thù lao. Ví dụ, bao gồm việc giao nộp hộ chiếu hoặc chấp nhận sự sắp xếp nhà ở không an toàn.

Hành vi phạm tội xảy ra khi ép buộc hoặc gây ảnh hưởng hoặc gây áp lực không đáng có đối với người nước ngoài hợp pháp hoặc bất hợp pháp để chấp nhận hoặc đồng ý với thỏa thuận liên quan đến công việc:

Điều này bao gồm trường hợp người sử dụng lao động dùng các thỏa thuận làm việc hiện có để gây sức ép với người lao động nước ngoài nhằm thực hiện những việc vi phạm điều kiện visa hoặc gây nguy hiểm cho tình trạng nhập cư của họ

Yêu cầu người lao động nộp tiền “cọc” để vào làm việc

Một số doanh nghiệp yêu cầu người lao động phải đóng một khoản tiền “đặt cọc” thì mới nhận người lao động vào làm. Yêu cầu này, theo họ là nhằm mục đích bảo đảm người lao động thực hiện đúng hợp đồng, nếu gây thiệt hại thì sẽ lấy tiền đó ra bù vào.

Tại khoản 2 điều 20 Bộ luật Lao động năm 2012 nghiêm cấm: “người sử dụng lao động yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động“. Nếu NSDLĐ có hành vi này có thể bị phạt tiền lên tới 25.000.000 đồng.

Các biện pháp trừng phạt lao động nhập cư vi phạm

Người lao động sẽ bị phạt nếu người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

Các hành vi này có thể khiến người sử dụng lao động bị cấm tuyển dụng. Riêng đối với các hành vi liên quan đến buôn người, nô lệ, lệ thuộc vì nợ nần sẽ không có giới hạn thời gian áp dụng lệnh cấm, hoặc có thể bị cấm tối đa 5 – 10 năm tùy hành vi phạm tội. Bộ trưởng Bộ Di trú cũng có thể công bố những người sử dụng lao động bị cấm trên website, tương tự như trên Sổ đăng ký của các đơn vị bảo lãnh lao động bị phạt trên website của Hải quan Úc. Những người sử dụng lao động bị cấm phải cung cấp thông tin cho Bộ Nội vụ trong vòng 28 ngày kể từ khi tuyển dụng người nước ngoài. Nghĩa vụ này tồn tại trong vòng 12 tháng sau khi họ không còn bị cấm tuyển dụng.

Đạo luật này giải quyết những lỗ hổng trong pháp luật hiện hành, chủ yếu liên quan đến bóc lột, nhưng cũng tăng các hình phạt hiện có và bổ sung các rào cản đối với người sử dụng lao động ảnh hưởng đến khả năng bổ sung lực lượng lao động trong tương lai khi cần thiết. Điều này giúp họ nhận thức được nhu cầu tuyển dụng thực sự và visa Úc nói chung.

Yêu cầu giữ giấy tờ gốc của người lao động

Nhiều doanh nghiệp vì muốn giữ chân người lao động nên đã yêu cầu họ nộp các giấy tờ gốc. Tuy nhiên, yêu cầu tưởng chừng như đơn giản ấy lại vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 20 Bộ luật Lao động năm 2012. Do vậy, người sử dụng lao động có thể bị phạt lên tới 25.000.000 đồng nếu có hành vi giữ giấy tờ gốc của người lao động.

Những hành vi vi phạm các quy định về hợp đồng lao động bị xử phạt vi phạm hành chính

Những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật lao động về việc làm sau đây thì bị xử phạt vi phạm hành chính:

– Không công bố danh sách người lao động bị thôi việc, mất việc làm do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ;

– Không trao đổi với Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời khi cho người lao động thôi việc;

– Không thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh trước khi cho người lao động thôi việc;

– Vi phạm quy định của pháp luật lao động về thủ tục tuyển dụng người lao động Việt Nam vào làm tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức;

– Trả trợ cấp mất việc làm đối với người lao động thấp hơn mức do pháp luật quy định;

– Thu phí giới thiệu việc làm đối với người lao động cao hơn mức do pháp luật quy định; thu phí giới thiệu việc làm không có biên lai;

– Doanh nghiệp không lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm;

– Trung tâm giới thiệu việc làm, doanh nghiệp giới thiệu việc làm không có giấy phép hoạt động của cơ quan có thẩm quyền cấp; hoạt động không đúng quy định trong giấy phép.

– Dụ dỗ, hứa hẹn và quảng cáo gian dối để lừa gạt người lao động;

– Lợi dụng dịch vụ việc làm để thực hiện những hành vi trái pháp luật.

Kéo dài thời gian thử việc so với quy định của pháp luật, trả lương thử việc thấp hơn mức tối thiểu mà luật quy định

Điều 27 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về thời gian thử việc không kéo dài quá 60 ngày và chỉ được thử việc một lần.

Về tiền lương thử việc, Điều 28 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định là ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

Tuy nhiên, trên thực tế, trước khi giao kết hợp đồng lao động chính thức, người sử dụng lao động có quyền đặt ra thời hạn thử việc để kiểm tra trình độ và mức độ phù hợp đối với vị trí cần tuyển của người lao động. Lợi dụng quy định này, người sử dụng lao động thường quy định thời gian thử việc dài hơn mà mục đích đằng sau là chèn ép, bốc lột sức lao động của người lao động, có những doanh nghiệp quy định thời gian thử việc lên tới 03 tháng. Và mức lương thử việc nhiều doanh nghiệp đưa ra cho NLĐ thường bằng 50%, 70 hoặc 80% so với lương của công việc đó.

Theo Điều 6 Nghị định số 88/2015/NĐ-CP người sử dụng lao động có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 5000.000 đồng nếu vi phạm các quy định về thử việc.

Vi phạm các quy định về tiền lương

Nhiều doanh nghiệp thường trả lương chậm, tự ý khấu trừ lương hoặc không xây dựng thang lương, bảng lương, đưa ra mức lương thấp hơn lương tối thiểu hoặc giữ lại lương của người lao động. Đối với hành vi vi phạm này, tùy theo từng hành vi và mức độ vi phạm, NSDLĐ có thể bị phạt lên tới 75.000.000 đồng (Điều 13 Nghị định số 88/2015/NĐ-CP).

Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS

Luật sư Tuấn đạt được nhiều kinh nghiệm tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực như khai thác khía cạnh thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ, viễn thông, đầu tư, doanh nghiệp, bất động sản…

Khúc Thị Thu – Chuyên Gia Tư Vấn Về Sở Hữu Trí Tuệ

Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực Sở Hữu Trí Tuệ. Đã tham gia tư vấn cho các Khách hàng trong và ngoài nước về các vấn đề về đăng ký bảo hộ và giải quyết tranh chấp về Nhãn hiệu, Thương hiệu, Kiểu dáng, Sáng chế,... hiện bà là Trưởng Phòng Nhãn hiệu của văn phòng luật TGS.

Nguyễn Thị Oanh – Chuyên Gia Tư Vấn Về Sở Hữu Trí Tuệ

Là một chuyên viên giỏi trong lĩnh vực Sở Hữu Trí Tuệ, doanh nghiệp. Đặc biệt bà Oanh chuyên tư vấn giải đáp mọi thắc mắc về giấy phép con như: giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động, kiểm nghiệm mỹ phẩm,....

Trần Mai Hương – Chuyên Gia Tư Vấn Về Sở Hữu Trí Tuệ

Là chuyên gia pháp lý về lĩnh vực Sở Hữu Trí Tuệ. Đặc biệt bà Thu là chuyên gia tư vấn giải đáp mọi thắc mắc về nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, bản quyền tác giả,...

Đạo luật Di trú sửa đổi 2024 (Tăng cường Tuân thủ đối với Người sử dụng lao động) được thông qua vào cuối tháng 2 và có hiệu lực áp dụng kể từ 01/7/2024, sẽ tăng hình phạt đối với người sử dụng lao động bóc lột lao động tạm trú và cấm tuyển dụng lao động nước ngoài nếu có các vi phạm nghiêm trọng.

Quy định mới này nhằm mục đích ngăn chặn người sử dụng lao động gây áp lực đối với lao động tạm trú để tham gia các thỏa thuận lao động dẫn đến việc lao động đó vi phạm điều kiện visa làm việc.

Xem thêm: Úc cập nhật kế hoạch hành động Chiến lược Di cư mới nhất

Đạo luật Di trú 1958 có nhiều hạn chế về những gì mọi người có thể và không thể làm. Các điều này hầu hết nằm trong Phụ lục 8 của Quy định Di trú 1994, trong đó liệt kê các điều kiện visa áp dụng đối với chủ sở hữu visa tạm trú. Liên quan đến quyền làm việc, điều kiện visa có thể hạn chế:

Điểm khác biệt quan trọng ngoài các điều kiện visa này là quy định quyền làm việc đối với những người không phải là công dân Úc. Những người không phải là công dân Úc, không có visa và cư trú bất hợp pháp đều không có quyền làm việc. Điều này được làm rõ trong tiểu mục 235(3) của Đạo luật quy định rằng, những người nước ngoài cư trú bất hợp pháp làm việc tại Úc dù nhận được tiền hay không, đều bị xem là hành vi phạm tội.

Theo pháp luật về di trú, việc làm được định nghĩa đơn giản chỉ là hoạt động thu hút thù lao tại Úc. Điều này bao gồm các thỏa thuận liên quan đến việc thanh toán tiền nhưng cũng bao gồm bất kỳ thỏa thuận nào trong đó tiền sẽ được trả, nhưng không thực sự không được trả. Thực tế chỉ áp dụng loại trừ đối với các công việc mang tính chất tình nguyện.

Vi phạm điều kiện cấp visa làm việc là con dao 2 lưỡi đối với người sử dụng lao động và người lao động. Người lao động có thể bị hủy visa và/hoặc trục xuất khỏi Úc ngoài vấn đề bị phạt tiền do vi phạm điều kiện visa hoặc làm việc trái pháp luật, trong khi đó, người sử dụng lao động có thể ngồi tù hoặc đối diện với án phạt dân sự vì đã cho phép hoặc giới thiệu người nước ngoài làm việc.

Các điều khoản mới trước hết tăng hình phạt đối với các hành vi phạm tội hiện hữu với mức tăng gấp 4 lần, nhưng có thể còn tăng nữa.