Đến thăm cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng trẻ mồ côi và khuyết tật Hướng Dương để chuyển 40 chiếc xe đạp cũ mà những người bạn trên Facebook vừa quyên góp hỗ trợ cho trung tâm, chúng tôi bắt gặp thầy trò Thế Vinh đang lúi húi thiết kế sân khấu cho lễ kỷ niệm một năm ngày thành lập (ngày 25-9).
Đến thăm cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng trẻ mồ côi và khuyết tật Hướng Dương để chuyển 40 chiếc xe đạp cũ mà những người bạn trên Facebook vừa quyên góp hỗ trợ cho trung tâm, chúng tôi bắt gặp thầy trò Thế Vinh đang lúi húi thiết kế sân khấu cho lễ kỷ niệm một năm ngày thành lập (ngày 25-9).
Trong những năm đầu học mẫu giáo, giá trị của việc dạy trẻ làm việc nhà không phải là giúp bạn hoàn thành bao nhiêu công việc, mà chính là tạo thói quen giúp đỡ. Trẻ em 2 - 4 tuổi rất thích được nhờ giúp đỡ, vì vậy bố mẹ nên khai thác đặc tính tự nhiên này bằng cách dạy trẻ làm việc nhà đơn giản, dễ dàng. Khi con lớn lên, bé có thể thực hiện các nhiệm vụ phức tạp hơn và bắt đầu làm một số công việc độc lập.
Trẻ ở mỗi độ tuổi có thể làm được những công việc phù hợp
Nếu để trẻ làm việc nhà quá khó, con bạn sẽ nản lòng và không muốn làm theo. Bố mẹ cũng không được giao những công việc nguy hiểm như rửa dao sắc, sắp xếp đồ dễ vỡ.
Cha mẹ thường nghĩ rằng con còn nhỏ và không thể làm nhiều việc. Khi đứa trẻ này lớn hơn, phụ huynh có quan niệm như vậy vẫn mặc nhiên làm giúp những việc mà trẻ hoàn toàn có khả năng tự xoay sở, như làm bánh sandwich ăn sáng hay dọn dẹp phòng.
Đánh răng, ngồi bô, rửa tay và tự mặc quần áo là những "công việc" đầu tiên mà hầu hết các bé đều có thể làm. Tuy nhiên hầu hết các bậc cha mẹ không nghĩ sẽ giao những nhiệm vụ cá nhân này cho bé đầu tiên.
Cho trẻ tự làm việc nhà có thể khiến nhiệm vụ nội trợ của bạn mất nhiều thời gian hơn. Hãy nhớ rằng bạn chỉ đang đặt nền móng dạy trẻ làm việc nhà, chứ chưa thực sự được con giúp đỡ. Tất cả các công việc nhà đều cần được luyện tập đến khi thành thạo, trong khi trẻ mẫu giáo chỉ có thể tập trung chú ý trong một thời gian ngắn. Đừng mong đợi con bạn chủ động làm việc mỗi ngày mà không cần nhắc nhở, hoặc thực hiện tốt ngay từ đầu.
Bạn nên thoải mái giao cho bé trai một số công việc nhà bếp, bé gái một số công việc ngoài trời.
Yêu cầu dọn dẹp phòng là quá rộng và quá sức đối với trẻ mẫu giáo. Hãy cho con biết chính xác cần phải làm những gì, ví dụ như bỏ quần áo bẩn vào giỏ. Chỉ cách cho bé làm trong vài lần đầu tiên.
Thông báo 3 - 4 công việc phải làm cùng một lúc có thể khiến con bạn bối rối. Bé có thể quên toàn bộ danh sách hoặc lẫn lộn mọi nhiệm vụ. Hãy làm từng việc một.
Luôn tạo được không khí vui vẻ khi cho trẻ làm việc nhà
Vấn đề đối với công việc nhà là có xu hướng lặp đi lặp lại. Một khi tính mới mẻ mất đi, sự mệt nhọc sẽ bắt đầu. Bạn có thể biến việc nhà trở nên thú vị đối với trẻ mẫu giáo bằng cách thỉnh thoảng đổi vai trò.
Mặc dù con chưa biết đọc, nhưng bạn cũng có thể lập một biểu đồ những công việc cần phải làm với các hình ảnh minh họa. Những bài hát thiếu nhi như bài Bé Quét Nhà (một sợi rơm vàng), rất có sức mạnh đối với trẻ mẫu giáo. Hoặc hai mẹ con cũng có thể tự tạo ra những giai điệu ngớ ngẩn khi cất đồ chơi vào hộp hoặc khi giặt giũ.
Nếu trẻ xếp khăn không ngay ngắn hoặc trải drap giường không hoàn toàn thẳng, hãy cố gắng bỏ qua. Hướng dẫn cho trẻ cách làm một việc và sau đó để trẻ tự làm. Chỉnh sửa lại nhiệm vụ trẻ vừa hoàn thành sẽ làm giảm bớt niềm tự hào của con và khiến con ít muốn giúp đỡ lần nữa, thậm chí có ý nghĩ: Tại sao mẹ lại nhờ con trong khi mẹ có thể làm tốt hơn?
Trẻ mẫu giáo sẽ phát triển mạnh nếu được ủng hộ tích cực. Hãy khuyến khích và không chỉ trích khi bé làm việc. Sau đó, hãy cho con biết rằng những nỗ lực của con là rất quan trọng và bạn đánh giá cao điều đó. Nói với con cụ thể rằng: Khi con phụ mẹ dọn bàn, mẹ sẽ nấu ăn và cả nhà có thể ăn sớm hơn.
Hầu hết trẻ mẫu giáo còn quá nhỏ để hiểu được giá trị của đồng tiền. Tiền bạc để đổi lấy công việc không có nhiều ý nghĩa đối với bọn trẻ. Nhiều chuyên gia tài chính vẫn băn khoăn về việc trả tiền cho trẻ tự làm việc nhà. Thỉnh thoảng bạn vẫn có thể cho con tiền để dạy trẻ cách tiết kiệm và đưa ra các quyết định chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên giá trị của việc dạy trẻ làm việc nhà là phát triển lòng tự hào khi hoàn thành tốt một công việc và cảm nhận được sự đóng góp, vai trò của mình trong gia đình.
Ba mẹ nên tạo thói quen làm việc nhà cho trẻ
Trẻ nhỏ rất giàu trí tưởng tượng, rất thích được người khác quan tâm và nhờ vả. Vì thế, dựa vào độ tuổi và sự nhận thức của con, mẹ có thể dạy trẻ làm các công việc nhà phù hợp, thúc đẩy sự phát triển tư duy, nhận thức cũng như hình thành tính cách siêng năng ở trẻ.
Để trẻ khỏe mạnh, phát triển tốt cần có một chế độ dinh dưỡng đảm bảo về số lượng và cân đối chất lượng. Nếu trẻ không được cung cấp các chất dinh dưỡng đầy đủ và cân đối sẽ dẫn đến những bệnh thừa hoặc thiếu chất dinh dưỡng ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển toàn diện của trẻ cả về thể chất, tâm thần và vận động.
Trẻ ăn không đúng cách có nguy cơ thiếu các vi khoáng chất gây ra tình trạng biếng ăn, chậm lớn, kém hấp thu,... Nếu nhận thấy các dấu hiệu kể trên, cha mẹ nên bổ sung cho trẻ các sản phẩm hỗ trợ có chứa lysine, các vi khoáng chất và vitamin thiết yếu như kẽm, crom, selen, vitamin nhóm B giúp đáp ứng đầy đủ nhu cầu về dưỡng chất ở trẻ. Đồng thời các vitamin thiết yếu này còn hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường khả năng hấp thu dưỡng chất, giúp cải thiện tình trạng biếng ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng.
Thiếu vi chất dinh dưỡng và tình trạng không tăng cân ở trẻ
Nguồn tham khảo: babycenter.com
TTBD-Thực hiện Đề án số 03/ĐA/TU ngày 12/01/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về "Hỗ trợ nguồn lực thực hiện công tác xây dựng, phát triển tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương, giai đoạn 2022 - 2025. Chiều ngày 05/11/2022, được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện đoàn Phú Giáo, Đoàn xã Tân Hiệp ra mắt chi đoàn TNCN PB Tín Phát xã Tân Hiệp.
Đến dự với buổi lễ ra mắt Chi đoàn TNCN TNHH PB Tín Phát có đồng chí Phan Thị Hồng – Phó Bí thư Huyện đoàn, Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam huyện Phú Giáo; Đồng chí Hoàng Thuý Vui - UV.BTV Huyện đoàn, Phó Chủ tịch TT Hội LHTN Việt Nam huyện ; Đồng chí Nguyễn Văn Dũng – ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã; Đ/c Lê Minh Hải - UV.BCH Huyện đoàn, Bí thư Đoàn xã Tân Hiệp; Ông Huỳnh Văn Hải – Đại diện lãnh đạo Công ty TNHH PB Tín Phát và 07 đoàn viên, thanh niên Công ty TNHH PB Tín Phát cùng tham dự.
Trong buổi lễ ra mắt Chi đoàn Thanh niên công nhân Công ty TNHH PB Tín Phát, có 07 đoàn viên được trao Quyết định chính thức công nhận là Đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh và tại buổi Lễ ra mắt đã chỉ định BCH lâm thời Ban chấp hành Chi đoàn gồm 02 đồng chí trong đó đồng chí Huỳnh Hữu Thọ giữ chức Bí thư Chi đoàn; Đồng chí Nguyễn Nhân Trung Hiếu giữ chức Phó Bí thư Chi đoàn. Ngoài ra, Ban tổ chức Đề án còn trao tặng 07 phần quà cho Đoàn viên chi đoàn.
Lễ ra mắt chi đoàn TNCN Công ty TNHH PB Tín Phát
Phát biểu tại Lễ ra mắt, đại diện BTV Huyện đoàn mong rằng Chi đoàn trong thời gian tới sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, thanh niên. Tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh niên nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế của công ty, nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Đồng thời, hi vọng Chi đoàn mình cũng sẽ đoàn kết và giao lưu với chi đoàn khác để cùng tiến bộ, mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên.
Bạn chưa nhập nội dung bình luận.
TTBD - Có thể nói rằng, hiếm thấy trong lịch sử có một con người nào mà tên tuổi và sự nghiệp lại gắn bó với vận mệnh của cả dân tộc, cả đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể tìm thấy hình ảnh Người trong tâm trí của mỗi người dân và cũng có thể tìm thấy số phận của mỗi người dân trong từng suy nghĩ và hành động của Người. “Bác Hồ”- đó là cái tên trìu mến nhất, thiêng liêng nhất mà dân tộc Việt Nam đã dành để gọi vị lãnh tụ kính yêu của mình, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Người đã để lại cho dân tộc và thời đại một di sản vô giá - tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức, trí tuệ Hồ Chí Minh.
TTBD - Có thể nói rằng, hiếm thấy trong lịch sử có một con người nào mà tên tuổi và sự nghiệp lại gắn bó với vận mệnh của cả dân tộc, cả đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể tìm thấy hình ảnh Người trong tâm trí của mỗi người dân và cũng có thể tìm thấy số phận của mỗi người dân trong từng suy nghĩ và hành động của Người. “Bác Hồ”- đó là cái tên trìu mến nhất, thiêng liêng nhất mà dân tộc Việt Nam đã dành để gọi vị lãnh tụ kính yêu của mình, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Người đã để lại cho dân tộc và thời đại một di sản vô giá - tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức, trí tuệ Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý.
Trước hết, phải kể đến là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực, tự cường.
Chủ nghĩa yêu nước là gì? Hiểu một cách đơn giản, chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống quan điểm chỉ đạo tình cảm, thái độ, hành động, cách ứng xử…của mỗi người dân đối với Tổ quốc (trong xây dựng và bảo vệ đất nước).
Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện rất rõ nét từ thời vua Hùng dựng nước cho đến nay với nhiều biểu hiện khác nhau, ở đây tiếp cận dưới góc độ đánh giặc giữ nước thì từ thời Bà Trưng lãnh đạo nhân dân chống hàng vạn quân Nam Hán, tới bà Triệu khi chống quân Ngô đã tuyên bố “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng khi bị rơi vào tay quân Nguyên - Mông đã khảng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”, lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành dòng chủ lưu trong đời sống của người Việt Nam, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong bảng thang giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.
Sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ, đây là nơi Bác đã gắn bó tuổi thơ của mình (từ 1890 – 1895 và từ 1901 – 1906), là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đã sinh ra nhiều nhân vật yêu nước nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu; Phan Bội Châu...., là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm nên Người đã cảm nhận được độ “nóng” của các phong trào đấu tranh chống Pháp; Người đã thấu hiểu được thế nào là tình yêu quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn. Đó cũng là những điều kiện rất tốt sớm nuôi dưỡng, hun đúc tình cảm và tư tưởng yêu nước, thương nòi của Người.
Nhìn lại lịch sử, trãi nghiêm thực tế Bác Hồ đã đúc kết lại: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”, cũng chính truyền thống yêu nước đã sớm truyền vào người thanh niên trẻ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng đất nước.
Ý chí bất khuất, tự lực, tự cường:Trên thế giới, hầu như dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng, nhưng có lẽ không có dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam, kể từ khi nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên ở Việt Nam ra đời cho đến nay, dân tộc ta đã dành hơn nửa thời gian cho các cuộc chiến tranh vệ quốc, trong đó kẻ thù chủ yếu là các cường quốc hơn chúng ta về mọi mặt. Vì vậy, trong các cuộc chiến tranh ấy để giành được thắng lợi chúng ta chủ yếu là lấy sức ta để giải phóng cho ta, tự lực và tự cường.
Ý chí bất khuất, tự lực, tự cường chính là hành trang theo người suốt cuộc đời, tạo nên sức mạnh để Người vượt qua nhưng khó khăn khi mới ra đi tìm cứu nước phải lao động và kiếm sống ở nước ngoài phụ bếp đến bồi bàn, rửa ảnh, quét tuyết...., hoàn cảnh làm việc vô cùng vất vả. Chế Lan Viên đã từng có những câu thơ khắc hoạ lại cảnh Người làm việc: “Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ/Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?”. Đây không chỉ là thơ mà là hiện thực cuộc sống của Bác được đưa vào trong thơ, bôn ba ở nước ngoài không ít lần Người phải chịu cảnh tù đày, nhưng vất vả đó không làm Người chùn bước.... Khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin người xác định con đường đi cho dân tộc Việt Nam là làm cách mạng vô sản, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và Người luôn kiên định mục tiêu này, dù cho có lúc Quốc tế cộng sản hiểu sai về Người, từng đặt Người đứng bên ngoài Quốc tế cộng sản. Tuy nhiên, với ý chí kiên cường và tinh thần quốc tế trong sáng, một con người không chỉ vì dân tộc mình mà còn vì tất cả các dân tộc bị đoạ đầy đau khổ, một con người cả cuộc đời vì nước, vì dân. Người đã không chỉ trở thành lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là biểu tượng ngưỡng vọng của các dân tộc tiến bộ trên thế giới.
Chính sức mạnh của truyền thống yêu nước ấy đã thúc đẩy người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Đó cũng là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn yêu nước để luôn nhắc nhở, cỗ vũ bản thân và cỗ vũ quốc dân đồng bào.
Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ. Ở Việt Nam, tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết là một đặc trưng gốc rễ của làng xã Việt Nam, nó được hình thành từ rất sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, gắn liền với tiến trình đấu tranh của dân tộc, là nét văn hóa đặc trưng của người Việt được bảo tồn từ đời này sang đời khác đã được ông cha ta lưu truyền để dạy bảo con cháu qua ca dao, tục ngữ hay các câu chuyện ngụ ngôn như câu chuyện “Bó đũa”.Trên thực tế, nếu có nhiều cánh tay, nhiều khối óc góp lại cùng làm thì công việc sẽ mau chóng hoàn thành dù cho nó có khó khăn đến đâu.
Kế thừa tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ, ngày từ rất sớm người thanh niên trẻ tuổi ấy đã thể hiện lòng bác ái đối với đồng bào. Tình yêu thương con người của Bác trước hết Bác dành cho toàn thể dân tộc Việt Nam, những người đã quá khổ cực do sự tồn tại quá lâu của chế độ phong kiến, sau đó sự áp bức của bọn thực dân, tình yêu thương đó thể hiện ở một ham muốn: “Ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1) Bác thương đồng bào miền Nam – nơi “đi trước về sau”, Bác nói: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa được giải phóng là một ngày tôi ǎn không ngon, ngủ không yên”. Với tình cảm sâu nặng, thiết tha “miền Nam trong trái tim tôi”. Tháng 7-1969, hai tháng trước khi Bác mất, khi trả lời phỏng vấn một nữ nhà báo đến từ Cuba về tình cảm của Bác đối với miền Nam, Bác nói: “Ở miền Nam Việt Nam, những người dưới 25 tuổi không biết nghĩa chữ tự do. Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” (2).
Tình yêu thương con người của Bác còn vượt qua biên giới lãnh thổ, Bác dành tình cảm đó cho tất cả những người bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Khi bôn ba ở nước ngoài, Bác đã có một kết luận quan trọng đầu tiên: dù màu da khác nhau nhưng trên thế giới chỉ có hai loại người là người bị áp bức và kẻ áp bức, chỉ có hai loại việc: việc chính và việc tà, người làm việc chính là người thiện, người làm việc tà là người ác và Người từng nói: lòng thương yêu Nhân Dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi. Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác, Bác thương những người dân lao động nghèo khổ nơi Bác đã từng đi qua, khi tới thăm tượng Nữ thần Tự do ở Mỹ, Bác đã trăn trở “Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân Thần thì người da đen bị chà đạp” và Người tự hỏi: “Bao giờ thì người da đen mới hết bị chà đạp? Bao giờ thì người da đen và người phụ nữ mới có bình đẳng? Bao giờ mới có sự bình đẳng giữa các dân tộc?”.
Đối với Hồ Chí Minh, thương yêu con người còn đòi hỏi phải rộng rãi độ lượng với người khác, phải biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.Người cho rằng “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người, cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng, đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc... Ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang” (3)
Như vậy, có thể thấy rằng đoàn kết là một yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên thành công, đúng như ông cha ta đã đúc kết: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay như sau này Bác Hồ khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất, trong chiến đấu.
Cần cù, siêng năng là một trong những phẩm chất đáng quý của người Á Đông, trong đó có Việt Nam, cần cù chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân, bởi vì: Thứ nhất, Việt Nam là một nước nông nghiệp, trước đây chủ yếu là nghề nông trồng lúa nước, đây là công việc vất vả và có tính thời vụ cao, vì vậy để có được hạt gạo người Việt phải cần cù, phải một nắng hai sương, phải “Siêng nhặt chặt bị”; thứ hai, Việt Nam là quốc gia có khí hậu khá khắc nghiệt, không chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn phải hứng chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với thiên nhiên, để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù; thứ ba, trong lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành chiến tranh vệ quốc, mặc dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng hậu quả sau mỗi cuộc chiến là sự hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả, ổn định đời sống con người Việt Nam đã rèn cho mình đức tính cần cù.
Bác Hồ - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kế thừa đức tính cần cù của con người Việt Nam, được thể hiện cụ thể qua cả học tập, lao động. Trong học tập, Người luôn cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong phú vốn kiến thức và trí tuệ của mình, trong lao động Người luôn chăm chỉ và cần mẫn để có tiền sống, tiền học tập và tham gia hoạt động cách mạng khi còn hoạt động ở nước ngoài; khi về nước dù ở đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến sĩ tham gia sản xuất để cải thiện đời sống.
Dũng cảm, thông minh, sáng tạo, một dân tộc sau hàng ngàn năm là nô lệ, bị cưỡng bức, đồng hóa về mặt thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt sách, nô dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán, nhưng vẫn không khuất phục, kiên cường chịu đựng, nuôi dưỡng ý thức độc lập để rồi lại đứng lên giành lấy độc lập.
Chiến tranh thường tạo nên những anh hùng, nhưng không phải chỉ chiến tranh mới có anh hùng. Ngay trong thời bình những tấm gương về người dũng cảm, thông minh, sáng tạo cũng rất nhiều.
Tóm lại, tất cả những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã thấm sâu vào trí tuệ, tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Ái Quốc qua những năm tháng được tiếp thu trong nền giáo dục của gia đình, quê hương, nhà trường đã trở thành điểm xuất phát, là nền tảng trong hình thành phẩm chất của vị lãnh tụ.
Tác giả Nguyễn Thị Mai – Chi đoàn Trường Chính trị tỉnh Bình Dương (MH)
(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 4, tr. 161
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 12, tr. 560-561
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 4, tr. 246
TTBD - Đồng chí Lê Quang Đạo là nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân. Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, trải qua nhiều lĩnh vực công tác, với những cương vị quan trọng khác nhau, đồng chí luôn phấn đấu không mệt mỏi vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lý tưởng cộng sản. Cả cuộc đời đồng chí cống hiến hết mình cho Đảng, nhà nước và nhân dân.
Inforgraphics kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đồng chí Lê Quang Đạo (8/8/1921 - 8/8/2021)
I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ, QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO
Đồng chí Lê Quang Đạo, tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 8/8/1921 trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cách mạng tại xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1930 - 1936, Nguyễn Đức Nguyện học và tốt nghiệp tiểu học ở trường làng. Từ năm 1937 - 1939, học Trường tư thục Gia Long, sau chuyển sang học ở Trường Trung học tư thục Thăng Long – Hà Nội. Trong thời gian này, Nguyễn Đức Nguyện đã tham dự những buổi nói chuyện chính trị ở trụ sở Đảng Xã hội tại Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt; tham gia Đoàn Thanh niên dân chủ Hà Nội, rồi Thanh niên phản đế.
Tháng 8/1940, Nguyễn Đức Nguyện được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; cuối năm 1940, được phân công là Bí thư Chi bộ Đảng, Ủy viên Ban Cán sự Đảng phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Giữa năm 1941, Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng và lấy tên là Lê Quang Đạo; cuối năm 1941 đến đầu năm 1942, được phân công làm Bí thư Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh.
Từ tháng 4/1942 đến tháng 4/1943 là Bí thư Ban Cán sự đảng bộ tỉnh Phúc Yên, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ.
Từ tháng 5/1943 đến tháng 10/1944, là Bí thư Ban Cán sự đảng bộ thành phố Hà Nội, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ.
Từ tháng 5/1945 đến tháng 8/1945, phụ trách báo Quyết Thắng và mở các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh ở chiến khu Hoàng Hoa Thám (Bắc Giang).
Giữa tháng 8/1945, Đồng chí được cử làm chính trị viên Chi đội Giải phóng quân Bắc Giang, tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa ở Bắc Giang.
Từ tháng 10/1945 đến tháng 6/1946, đồng chí Lê Quang Đạo tham gia thành lập Thành ủy Hải Phòng và trở thành Bí thư Thành ủy Hải Phòng.
Từ tháng 6/1946 đến tháng 12/1946 là Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội.
Từ tháng 12/1946 đến cuối năm 1947, Đồng chí là Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Phó Bí thư Khu ủy đặc biệt Hà Nội (khu XI). Tháng 11/1947, là Bí thư Thành ủy Hà Nội.
Năm 1948, đồng chí Lê Quang Đạo là Bí thư liên Tỉnh ủy Hà Nội - Hà Đông; cuối năm 1948 là khu ủy viên, rồi Ủy viên Thường vụ Liên khu III, phụ trách công tác tuyên huấn.
Từ năm 1949 đến tháng 8/1950, Đồng chí giữ chức Phó Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng.
Tháng 9 năm 1950, Đồng chí được điều động vào Quân đội nhân dân Việt Nam; giữa tháng 10/1950 được phân công làm Phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ Chỉ huy chiến dịch Biên giới, phụ trách công tác tuyên huấn của chiến dịch.
Từ tháng 10/1950 đến năm 1953 làm Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Phó Chủ nhiệm chính trị Bộ chỉ huy chiến dịch, Chính ủy Sư đoàn 308 tham gia suốt chiến dịch.
Tháng 7/1954 là Phó Trưởng đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến Việt - Pháp.
Tháng 5/1955 đến tháng 8/1978 là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên huấn, địch vận, đối ngoại. Năm 1958, được phong quân hàm Thiếu tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), Đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; tại Hội nghị lần thứ 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (tháng 3/1972) được bầu vào Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương.
Năm 1974, Đồng chí được thăng quân hàm Trung tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976), Đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Tháng 12/1978, Đồng chí rời Quân đội và được phân công là Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), đồng chí Lê Quang Đạo tiếp tục được bầu vào Ủy viên Trung ương Đảng và Bí thư Trung ương Đảng, trực tiếp làm Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Năm 1983, phụ trách công tác Dân vận của Trung ương và tham gia Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 6/1987, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, Đồng chí được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Tháng 11/1988, tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III, Đồng chí được cử vào Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đầu năm 1993, thôi giữ chức Chủ tịch Quốc hội để chuyên trách về công tác Mặt trận với cương vị Bí thư Đảng ủy, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Tháng 8/1994, tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IV, Đồng chí được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày 24/7/1999, đồng chí Lê Quang Đạo mất tại Hà Nội.
Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã có những công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ghi nhận công lao to lớn của Đồng chí với dân tộc, Đảng, Nhà nước tặng Đồng chí Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Đại đoàn kết dân tộc và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.
II. ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO - NHÀ LÃNH ĐẠO CÓ UY TÍN LỚN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN TA
1. Người thanh niên yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một Bí thư trẻ tuổi dũng cảm, năng động, hoạt động ở những địa bàn quan trọng
Sinh ra và lớn lên ở một quê hương giàu truyền thống cách mạng, căn cứ địa, an toàn khu cách mạng Việt Nam, đồng chí Lê Quang Đạo sớm giác ngộ và được kết nạp vào Đảng từ năm 19 tuổi, trực tiếp làm việc với các nhà hoạt động cách mạng như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt..., được dự lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Năm 1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam; đồng chí Lê Quang Đạo được Trung ương Đảng và Bác Hồ giao nhiều trọng trách lần lượt làm Bí thư Ban cán sự Đảng các tỉnh, như: Bắc Ninh, Phúc Yên (tức Bí thư Tỉnh ủy hiện nay), Xứ ủy viên, rồi Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ với nhiệm vụ chủ yếu lúc này là xây dựng các cơ sở Đảng, tuyên truyền phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng căn cứ địa Bắc Ninh - Vĩnh Phúc - Hà Nội giúp Trung ương đào tạo cán bộ cho phong trào quần chúng đấu tranh sâu rộng, mạnh mẽ, tạo những tiền đề và điều kiện thuận lợi cho khởi nghĩa thắng lợi ở vùng này.
Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Đồng chí được cử về tham gia thành lập Thành ủy Hải Phòng và được cử làm Bí thư. Trên cương vị Bí thư Thành ủy Hải Phòng trong lúc cách mạng đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đồng chí đã tích cực đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức cứu quốc, củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ đạo tổ chức thành công Tổng tuyển cử ở Hải Phòng, góp phần giữ vững chính quyền cách mạng, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng.
Đối với Hà Nội, đồng chí Lê Quang Đạo có ba lần giữ cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội. Lần thứ nhất từ tháng 10/1943 đến tháng 10/1944, khi Hà Nội trong tình thế vô cùng khó khăn trước những cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp; trên cương vị Bí thư Thành ủy, Đồng chí đã thể hiện tài năng lãnh đạo, trực tiếp lăn lộn với giới trí thức, học sinh, sinh viên xây dựng các tổ chức quần chúng nhằm tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân Hà Nội ủng hộ và tham gia cách mạng. Cái tên “Đốc lý đỏ” mà thực dân Pháp đặt cho nói lên vai trò của Đồng chí trong việc gây dựng phong trào cách mạng ở Hà Nội. Lần thứ hai từ tháng 5/1946 đến tháng 12/1946, thời gian này tình hình Hà Nội vô cùng căng thẳng, thực dân Pháp chuẩn bị gây chiến, là Bí thư Thành ủy, Phó Bí thư Khu ủy đặc biệt Hà Nội (Khu XI), Đồng chí đã cùng cán bộ, chiến sĩ bảo vệ Trung ương rút khỏi Hà Nội an toàn, cùng Trung đoàn Thủ đô chiến đấu, cầm cự trong nội thành suốt hai tháng và cũng là một trong những người cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Lần thứ ba, từ cuối năm 1947 đến đầu năm 1948, lúc này cơ quan của Thành ủy Hà Nội chuyển về đóng ở Chương Mỹ, Hà Đông; Đồng chí đã quyết định đưa cán bộ về cơ sở, tiến hành xây dựng và khôi phục các chi bộ Đảng, các tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức lực lượng du kích, đào hầm bí mật, chiến đấu ngay trong lòng địch, gây cho địch nhiều khó khăn, tổn thất.
2. Đồng chí Lê Quang Đạo - Người có công lao, đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực
2.1. Người chỉ huy chính trị, quân sự - Anh cả của ngành Tuyên huấn Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm1950, Đồng chí Lê Quang Đạo được điều động vào quân đội. Gần như suốt 30 năm chiến tranh, Đồng chí khoác áo lính và thường có mặt ở những chiến trường nóng bỏng với những trọng trách quan trọng. Trên cương vị Cục trưởng Cục Tuyên huấn (tháng 10/1950), Đồng chí sớm nắm bắt được những yêu cầu quan trọng đặt ra đối với công tác lãnh đạo chính trị, chủ động đề xuất những nội dung quan trọng của công tác giáo dục chính trị trong bộ đội và được phân công biên soạn, viết nhiều tài liệu về công tác chính trị, tư tưởng, xây dựng Đảng, đặc biệt là các tài liệu chỉnh huấn, chỉnh quân. Cùng với đó, Đồng chí còn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên huấn cho các cấp, các đơn vị, góp phần xây dựng ngành tuyên huấn quân đội ngày càng hoàn thiện về tổ chức và giỏi về nghiệp vụ.
Trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Lê Quang Đạo được Quân ủy Trung ương giao phụ trách công tác đảng, công tác chính trị trong các chiến dịch lớn, vào những thời điểm quyết liệt, như: Phó Chủ nhiệm chính trị chiến dịch Biên giới (1950); Phó Chủ nhiệm chính trị chiến dịch Điện Biên Phủ (1954); Bí thư Đảng ủy, Chính ủy chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968), chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), đường 9 – Quảng Trị (1972). Trên cương vị được giao, Đồng chí luôn đi sát mặt trận, bám sát chiến trường, nắm chắc diễn biến của từng trận đánh, gần gũi chiến sĩ, phát huy tinh thần tập thể, dân chủ, động viên bộ đội quyết tâm chiến đấu. Đồng chí đã cùng cán bộ, chiến sỹ quân đội ta lập nên những chiến thắng vẻ vang, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Ngày 27/1/1973, Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Giữa tháng 6/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III được tổ chức tại Hà Nội, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Quang Đạo đã trình bày tham luận khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo độc lập, tự chủ của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến; đồng thời nêu rõ những ưu điểm, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến và nguyên nhân của những khuyết điểm đó. Bài phát biểu của đồng chí Lê Quang Đạo tại Hội nghị Trung ương lần thứ 21 khóa III đã góp phần vào thành công của Hội nghị lịch sử, quyết định đường lối chiến lược để kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Qua kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn phong phú trên các chiến trường, Đồng chí đã viết nhiều bài, rút ra những kinh nghiệm về thực hiện công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Với những đóng góp to lớn và quan trọng đối với công tác chính trị, tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam suốt hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo, được mệnh danh là “Anh cả của ngành tuyên huấn quân đội”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: “Đồng chí Lê Quang Đạo là một cán bộ lãnh đạo có đức độ và tài năng của Đảng ta và quân đội ta… Suốt 28 năm trong quân ngũ, Lê Quang Đạo đã đem hết tài năng và sức lực, tâm hồn và trí tuệ xây dựng và chỉ đạo ngành Tuyên huấn quân đội. Anh là một nhà hoạt động tư tưởng và văn hóa xuất sắc của quân đội và của Đảng... Anh là một nhà lãnh đạo, chỉ huy ưu tú của quân đội, một vị tướng có đủ những đức tính trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung như Bác Hồ đã từng dạy. Anh coi trọng xây dựng quân đội về chính trị và tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch, chiến đấu...”[1]
Để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, cuối năm 1973, đồng chí Lê Quang Đạo được cử giữ chức Giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy Học viện Chính trị quân sự. Trên cương vị này, Đồng chí cùng Ban Giám đốc Học viện đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao công tác giáo dục, đào tạo cán bộ chính trị cho quân đội, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ và đơn vị cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại.
Với những hoạt động và đóng góp với ngành tuyên huấn quân đội trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo đã được phong hàm Thiếu tướng năm 1958 và Trung tướng năm 1974.
2.2. Một nhà lý luận trên lĩnh vực khoa giáo của Đảng
Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Lê Quang Đạo tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bí thư Trung ương Đảng, được phân công làm Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Trong những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội đất nước lâm vào tình trạng khó khăn, trên cương vị Trưởng ban Ban Khoa giáo Trung ương với tầm nhìn bao quát, đồng chí Lê Quang Đạo đã quan tâm đến tất cả các ngành khoa học cũng như công tác quản lý, hoạt động khoa học. Đồng chí đã đề xuất quan điểm đổi mới, dân chủ trong nghiên cứu khoa học, coi trọng bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, nhất là đội ngũ trí thức, trí thức trẻ. Những năm tháng phụ trách công tác khoa giáo của Đảng, Đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đạo, cán bộ Ban Khoa giáo Trung ương tổ chức nhiều buổi tọa đàm, hội thảo, gặp gỡ để lắng nghe ý kiến tâm huyết, trí tuệ của nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, góp phần tìm ra giải pháp tháo gỡ tình hình khó khăn, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Thông qua gặp gỡ, tọa đàm, hội thảo đó, vấn đề đổi mới tư duy lý luận, tư duy kinh tế, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, sử dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực lần đầu tiên được đề cập và đã được tổng hợp báo cáo trực tiếp với đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh. Nhiều vấn đề của báo cáo đã được thể hiện trong “Báo cáo chính trị đổi mới toàn diện đất nước” mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã thông qua.
2.3. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh
Ngày 17/6/1987, tại phiên họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Đảm nhận cương vị Chủ tịch Quốc hội trong thời điểm sau Đại hội VI của Đảng - Đại hội khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, đòi hỏi Quốc hội - cơ quan lập pháp, quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam phải thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, trên cương vị người đứng đầu Quốc hội, Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc đổi mới sâu sắc, toàn diện về tổ chức hoạt động của Quốc hội, trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhất là việc đẩy nhanh công tác lập hiến và lập pháp để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Đồng chí đã đóng góp nhiều công sức vào việc soạn thảo Hiến pháp năm 1992, phù hợp với cương lĩnh đổi mới của Đảng, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng và Nhân dân trong giai đoạn mới; đồng thời ra sức thực hiện chương trình xây dựng pháp luật để Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thông qua được nhiều bộ luật, luật và pháp lệnh. Bên cạnh đó, Đồng chí đã góp phần tích cực trong việc Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, mở đầu thời kỳ đổi mới còn nhiều khó khăn phức tạp. Đồng chí cũng rất chú trọng đổi mới phong cách làm việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc điều hành Quốc hội thảo luận, chất vấn thực sự dân chủ, đổi mới đã phát huy trí tuệ của các đại biểu, tạo được không khí cởi mở, đoàn kết trong Quốc hội.
2.4. Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Việt Nam, phát huy vai trò của Mặt trận, tăng cường đổi mới công tác Mặt trận, không ngừng nâng cao chất lượng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế trong thời kỳ đổi mới đất nước
Với 17 năm tham gia Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 năm giữ chức vụ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994 - 1999), Đồng chí đã có nhiều đóng góp trong xây dựng Mặt trận, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, như: giúp Trung ương Đảng xây dựng Chỉ thị 17-CT/TW, ngày 18/4/1983 “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, đặc biệt năm 1993, Đồng chí đã cùng cán bộ, Đảng đoàn Mặt trận tham mưu Đảng ban hành Nghị quyết 07 ngày 17/11/1993 về “Đại đoàn kết dân tộc, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong tình hình mới”, một nghị quyết tạo bước ngoặt cho đại đoàn kết dân tộc và công tác Mặt trận trong công cuộc đổi mới đất nước.
Với tư cách là Trưởng ban soạn thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đồng chí đã dốc sức cùng tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 nhất trí thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là công trình lớn cuối cùng của Đồng chí cống hiến cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận và Nhân dân ta trước lúc ra đi, đã góp phần thiết thực nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
III. ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO – TẤM GƯƠNG MẪU MỰC VỀ ĐẠO ĐỨC, PHẨM CHẤT CÁCH MẠNG
1. Tấm gương về ý chí kiên cường với tinh thần tiên phong quả cảm
Nét nổi bật ở đồng chí Lê Quang Đạo là niềm tin tất thắng, sự trung thành và sẵn sàng hy sinh quên mình cho lý tưởng của Đảng, vì thắng lợi của cách mạng, vì sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của Nhân dân. Đồng chí là tấm gương của nhà lãnh đạo tận tụy và đầy trách nhiệm trước dân, trước Đảng, trước mọi nhiệm vụ, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân; tấm gương khiêm tốn, giản dị, liêm khiết, trung thực, chân thành, ghét thói xu nịnh, cơ hội chủ nghĩa, bè phái; tấm gương nói ít làm nhiều, luôn chí công vô tư và đặt lợi ích của Đảng, của dân lên trên hết, trước hết.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, là người chiến sĩ cách mạng hay khi trở thành nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta, Đồng chí luôn gần gũi đồng chí, đồng bào và sẵn lòng chia sẻ những khó khăn với tất cả mọi người. Đó là kết tinh chủ nghĩa nhân văn của một con người mang trong mình những tố chất đoàn kết dân tộc, một người cộng sản đầy bản lĩnh, một nhà lãnh đạo thấm nhuần sâu sắc tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Tấm gương mẫu mực về thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để các thế hệ sau mãi học tập, noi theo
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã sớm giác ngộ và đến với cách mạng từ khi còn rất trẻ. Trên cơ sở tiếp thu truyền thống đạo đức của dân tộc, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Quang Đạo đã thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức của người cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Trong kháng chiến gian khổ, khốc liệt cũng như trong thời bình, Đồng chí vẫn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, trung thực, liêm khiết, gắn bó với Nhân dân, với cán bộ.
Đồng chí Lê Quang Đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tin tưởng trao cho nhiều trọng trách quan trọng, ở địa bàn quan trọng và ở những thời điểm lịch sử. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, Đồng chí đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Đồng chí Lê Quang Đạo, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, là tấm gương tiêu biểu của người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, một nhà yêu nước chân chính, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tấm gương tiêu biểu cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của Đồng chí đối với Đảng, cách mạng Việt Nam; qua đó giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp Nhân dân tích cực thi đua học tập, lao động, công tác và chiến đấu góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng phát triển và bảo vệ đất nước./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỈNH ỦY BẮC NINH
[1] Lê Quang Đạo (1921-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 184 -187
TTBD - Kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước (30/4/1975 - 30/4/2023); Chào mừng tháng công nhân và tuần lễ thanh niên công nhân phường Bình Hoà năm 2023. Sáng ngày 16/04/2023, Đoàn thanh niên - Hội LHTN phối hợp với Trung tâm VHTT - HTCĐ phường Bình Hoà tổ chức Giải bóng chuyền TNCN đồng bào Khmer phường Bình Hoà năm 2023.
Tham dự chương trình có chị Lê Thị Ngọc Giàu - Bí thư Đoàn phường, Chủ tịch Hội LHTN Phường; Anh Nguyễn Thanh Sơn – Phó giám đốc trung tâm VHTT – HTCĐ phường; anh Nguyễn Hoàng Nhẫn - Cán bộ Trung tâm VHTT - HTCĐ phường cùng với hơn 100 hội viên, TNCN tham gia giải đấu.
Giải đấu có sự tham gia của 07 đội TNCN đồng bào Khmer trên địa bàn phường Bình Hoà. Ban tổ chức trao cờ lưu niệm cho các đội tham gia. Giải diễn ra trong vòng 01 ngày với sự tranh tài sôi nổi, nhiệt tình của các đội. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, các vận động viên thi đấu hào hứng, cống hiến nhiều pha bóng đẹp mắt trong sự cỗ vũ nhiệt tình của khán giả.
Các đội thi đấu bóng chuyền sôi nổi
Kết quả chung cuộc đội Bình Hoà 24 đã xuất sắc giành giải nhất và nhận cúp vô địch; đội Bình Hoà 550 xuất sắc đạt giải nhì và đội Khánh Bình đạt giải ba. Ban tổ chức trao cờ giải, huy chương, hoa và tiền thưởng cho các đội xuất sắc Giải bóng chuyền.
Trao giải cho các đội xuất sắc Giải bóng chuyền
Đây là hoạt động thiết thực và ý nghĩa, giúp các anh chị hội viên, TNCN có dịp gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm thi đấu, thắt chặt tình đoàn kết.
Bạn chưa nhập nội dung bình luận.